Mô hình tăng trưởng cũ không còn phù hợp

Tại hội thảo "Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế sau 35 năm đổi mới" do Ban Kinh tế Trung ương tổ chức ngày 26.4, TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn cho rằng các vùng đều thúc đẩy công nghiệp, ít phát triển theo lợi thế ngành.

“Ngay cả các tỉnh không có lợi thế cũng tập trung bằng mọi cách “trải thảm đỏ” thu hút đầu tư để mở ra các khu công nghiệp các khu du lịch. Kết quả là ở hầu hết các địa phương đều xuất hiện tình trạng khai thác tận thu tài nguyên tự nhiên”, ông Sơn nhấn mạnh.

Chuyên gia này nhìn nhận lĩnh vực nông nghiệp là lợi thế quốc gia nhưng mức đầu tư công thấp, tạo ra hiệu ứng bất lợi cho việc thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Điều này khiến cơ cấu ngành kinh tế các vùng dập khuôn, đơn điệu, chưa phù hợp với định hướng quy hoạch và lợi thế vùng.

Cũng theo ông Sơn, một bất cập khác là địa bàn động lực kinh tế tập trung vào 2 vùng và 2 thành phố. TP.HCM và 6 tỉnh thành Đông Nam bộ phải đảm đương 42%, còn Hà Nội và 11 tỉnh thành đồng bằng Sông Hồng đóng góp 30% tổng thu ngân sách.

Năm 2016, trong 63 tỉnh thành cả nước chỉ có 13/63 tỉnh thành có nguồn thu có dư để điều tiết về trung ương. TP.HCM chỉ chiếm 0,63% diện tích với 8,8% dân số và 7,8% lực lượng lao động cả nước phải đóng góp bằng số thu của toàn bộ 46 tỉnh thành ngoài 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ.

dks.jpg

TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn - Ảnh: NDH

TP.HCM cũng chỉ được giữ lại 23% ngân sách làm ra, trong khi Hà Nội giữ lại 49% thu ngân sách. Động lực tăng trưởng không nhờ vào đổi mới sáng tạo hay phát huy lợi thế mà dựa vào ưu tiên đầu tư.

“Quyết định phân bổ thiếu căn cứ khoa học, gắn với cơ chế xin - cho. Địa phương đầu tàu cảm thấy bị thua thiệt, muốn được hưởng ưu đãi đặc biệt và giảm động lực phấn đấu. Các địa phương đóng góp ít xuất hiện tư tưởng ỷ lại, trông chờ, thiếu chủ động, sáng tạo và cả nước đều trì trệ”, ông Sơn nêu.

Theo đó, kinh tế đất nước chia thành 2 phần: khu vực quanh hai thành phố lớn hết sức năng động, nhận phần lớn đầu tư, tạo phần lớn việc làm và hút dân di cư. Phần còn lại của cả nước dựa vào kinh tế nông nghiệp và khai thác tài nguyên thiên nhiên, thu nhập và điều kiện sống thấp hơn hẳn, đóng góp ít.

Ông Sơn cũng cho rằng thành phần kinh tế ngoài nhà nước chưa phát huy năng lực chủ đạo. Ba “thành phần kinh tế” chính đóng góp cho nền kinh tế Việt Nam năm 2015 là kinh tế tư nhân 41,2% GDP, tạo việc làm cho 85,9% lao động; doanh nghiệp nước ngoài góp 26,3% GDP, 4,2% lao động và kinh tế nhà nước đóng góp 22,8% GDP; 9,8% lao động.

Thực tế kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng GDP và tạo ra phần lớn việc làm trong xã hội. Các doanh nghiệp nhà nước làm ăn yếu kém vẫn nắm giữ các yết hầu kinh tế.

“Khối kinh tế tư nhân bịt kẹt giữa cạnh tranh với khối kinh tế nhà nước chưa rời ra và các doanh nghiệp nước ngoài đang tiến vào. Trong hoàn cảnh cạnh tranh bất lợi đó, khả năng cạnh tranh khối doanh nghiệp tư nhân non trẻ giảm sút nhanh chóng”, ông Sơn nêu.

Một vấn đề nữa, ông Sơn cho rằng tài nguyên giảm hiệu quả, khoa học công nghệ chưa phát triển. Trong cơ cấu của TFP, vai trò của KHCN chỉ đóng góp khoảng 28,44%. Trong nông nghiệp, hiệu quả công nghệ ước tính là 16,18%; trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo chỉ là 9%.

cn.png

Trong nông nghiệp, hiệu quả công nghệ ước tính là 16,18%; trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo chỉ là 9%

Ông Sơn đánh giá, mô hình kinh tế thời gian qua huy động các nguồn tài nguyên để tăng trưởng, đã đạt tới giới hạn hiệu quả khai thác và tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, Việt Nam lại chưa chuẩn bị đủ về tài nguyên con người và tích lũy đủ tư bản để phát triển một nền kinh tế đổi mới sáng tạo.

Tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành thông thoáng

Đề xuất mô hình tăng trưởng mới, ông Sơn kiến nghị tạo các điều kiện cơ bản cho cơ chế thị trường vận hành thông thoáng trong quá trình giao dịch và phân bổ nguồn lực như: đảm bảo tính chính danh về quyền sở hữu/sử dụng (đất, lao động, trí tuệ…); thị trường chính thức (sàn giao dịch, giá cạnh tranh, giao dịch giản tiện…); phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ; chuyển từ lao động phi chính thức sang chính thức, lao động thủ công sang lao động có kỹ năng và lao động trí óc…

Tại 2 thành phố chính sẽ phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ, phát triển đô thị vệ tinh, hình thành cụm đô thị lân cận, đưa cư dân và hoạt động kinh tế ra khỏi trung tâm lõi, giảm sức ép quá tải do di cư và mật độ phát triển.

Hai đô thị lớn này tập trung vào các chức năng quan trọng nhất, có giá trị gia tăng cao như đầu não chính trị, trung tâm ngoại giao và khoa học; phân cấp vai trò đầu tàu sản xuất, dịch vụ, nhất là trung tâm công nghệ, nhân lực và hậu cần cho 6-7 thành phố nằm tại trung tâm các vùng kinh tế xã hội chính phân bổ đều trên cả nước…

Đồng thời hình thành mô hình cơ cấu kinh tế ngành dựa trên lợi thế của từng địa bàn, tạo nên sức cạnh tranh riêng của các vùng kinh tế, dựa trên điều kiện đa dạng.

Ví dụ miền núi phía Bắc tập trung phát triển rừng, thủy điện, làm dịch vụ công bảo vệ biên giới môi trường; Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Bắc Trung Bộ ưu tiên phát triển dịch vụ đa dạng; Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên hướng vào nông nghiệp tổng hợp. Tại mỗi vùng lấy ngành lợi thế nhất làm trục kinh tế chính, các ngành khác phối hợp, liên kết cả vùng cùng phát triển.

Song song với đó, đổi mới hoạt động doanh nghiệp nhà nước và quyết liệt lựa chọn, thanh lọc doanh nghiệp FDI kém hiệu quả; ưu tiên tập trung phát triển doanh nghiệp ngoài nhà nước; có chính sách để doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài đóng vai trò mở đường, kết nối và vực dậy doanh nghiệp trong nước chiếm lĩnh thị trường cả trong và ngoài nước.

sxcn.jpg

Thanh lọc doanh nghiệp FDI kém hiệu quả

Cần có lộ trình thoát ra khỏi bẫy “sản xuất gia công”. Tạo điều kiện để kinh tế hợp tác mở đường, dẫn dắt kinh tế hộ phát triển thành kinh tế doanh nghiệp và tách lực lượng lao động phi nông nghiệp ra; tập đoàn kinh tế mạnh dẫn dắt doanh nghiệp địa phương, doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ; cơ quan khoa học công nghệ - doanh nghiệp; hợp tác xã – doanh nghiệp,…

“Tất cả những đổi mới nêu trên phải được chủ động điều hành, dẫn dắt bởi một thiết chế “nhà nước kiến tạo phát triển”; có cơ chế lựa chọn, đãi ngộ, lương thưởng, đề bạt cán bộ có đạo đức, năng lực theo kết quả công việc; hình thành cơ chế tham vấn chính thức và thường xuyên giữa các cơ quan nhà nước với đại diện các thành phần kinh tế và đội ngũ chuyên gia”, ông Sơn kiến nghị.

Ngoài ra, ông Sơn cho rằng cần hình thành cơ quan cấp bộ chuyên trách quản lý khủng hoảng và rủi ro; chuẩn bị sẵn lực lượng, tồn trữ vật tư, chuẩn bị phương tiện để đối phó với mọi biến động an ninh truyền thống; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị xã hội; các tổ chức xã hội để bảo vệ, phục vụ quyền lợi của người lao động…

Đại hội 13 của Đảng đã đề ra tốc độ tăng GDP bình quân 5 năm tới 6,5 - 7%/năm nhưng trong bối cảnh kinh tế toàn thế giới suy giảm vì dịch COVID-19 và chiến tranh Ukraine thì không đổi mới mô hình kinh tế, không thể đạt tăng trưởng mong muốn.

Trong tương lai, nếu vẫn giữ mức 6%/năm, cả 2 mục tiêu của Đại hội 13 đề ra sẽ không đạt; tăng 7%/năm, Việt Nam lên mức thu nhập trung bình cao sớm hơn năm 2030 nhưng 2045 vẫn chưa đạt mức thu nhập cao; chỉ trong trường hợp tăng 8%/năm, mới về sớm hơn cả 2 mục tiêu của Đại hội Đảng 3-4 năm

TS Đặng Kim Sơn