Theo quy định tại Khoản 1, điều 25, Luật Chứng khoán năm 2006, Công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau đây: Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng; Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán; Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên.

Như vậy, nếu công ty cổ phần đáp ứng được một trong ba điều kiện trên thì được coi là công ty đại chúng.

Ở hai trường hợp đầu tiên, việc trở thành công ty đại chúng là sự lựa chọn của bản thân công ty hay còn hiểu là việc xác lập trạng thái công ty đại chúng là tự động. Còn ở trường hợp cuối cùng, công ty cổ phần đáp ứng điều kiện về vốn điều lệ và số cổ đông đã nêu sẽ nghiễm nhiên trở thành công ty đại chúng nhưng phải thông qua thủ tục đăng ký công ty đại chúng.

Ngày trở thành công ty đại chúng được tính từ ngày hoàn thành việc góp vốn đầy đủ và số cổ đông được ghi nhận trong số cổ đông có từ 100 nhà đầu tư trở lên. Vậy nên, một là trong vòng 90 ngày kể từ ngày trở thành công ty đại chúng, công ty có trách nhiệm phải nộp hồ sơ đăng ký công ty đại chúng cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Hai là, lúc này, công ty đại chúng thuộc sự quản lý của Ủy ban chứng khoán Nhà nước bên cạnh Sở Kế hoạch và Đầu tư.

Cụ thể, chúng ta có thể hiểu là công ty đại chúng là những công ty thực hiện huy động vốn rộng rãi từ công chúng thông qua phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) niêm yết tại các trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc chứng khoán không niêm yết nhưng được giao dịch thông qua các thể chế môi giới chứng khoán.

Nét đặc trưng của các công ty đại chúng là có sự tham gia của nguồn vốn từ bên ngoài với nhiều nhà đầu tư.

Còn căn cứ quy định tại Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì doanh nghiệp tư nhân được hiểu như sau: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân. Luật doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.

Đặc biệt, doanh nghiệp tư nhân không xuất hiện sự góp vốn giống như ở các công ty nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp cũng chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân duy nhất.

Công ty đại chúng
Công ty đại chúng bán cổ phiếu của mình trên một sàn giao dịch chứng khoán. Ảnh minh họa

Từ đó có thể thấy, công ty đại chúng bán cổ phiếu của mình trên một sàn giao dịch chứng khoán còn công ty tư nhân thì không. Sự khác biệt đó ảnh hưởng đến nghĩa vụ pháp lý của các công ty, khả năng huy động vốn và cách chúng được định giá.

Các công ty đại chúng đưa cổ phiếu ra thị trường phải tuân thủ các quy tắc về công khai tài chính. Công ty đại chúng phải lập báo cáo thường niên và công bố báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng. Cùng đó là công bố thông tin về họp Đại hội đồng cổ đông thường niên, thông tin về hoạt động chào bán và báo cáo sử dụng vốn, và thông tin về tỷ lệ sở hữu nước ngoài.

Thực tế, khi các nhà phân tích tài chính đặt ra giá trị cho một doanh nghiệp, một công ty tư nhân thường hoạt động kém hơn một công ty đại chúng tầm tương đương. Các công ty đại chúng có tính thanh khoản cao hơn vì bất kỳ ai cũng có thể đầu tư vào chúng.

Các công ty đại chúng thích báo cáo lợi nhuận cao để gây ấn tượng với cổ đông. Các công ty tư nhân không cần phải gây ấn tượng với bất kỳ ai. Họ có thể bổ sung thêm chi phí để cắt giảm lợi nhuận chịu thuế và giá trị rõ ràng của chúng.

Công ty tư nhân
Một công ty tư nhân muốn mở rộng, nó có thể huy động tiền thông qua IPO cổ phiếu. Ảnh minh họa

Tuy vậy, khi một công ty tư nhân muốn mở rộng, nó có thể huy động tiền thông qua IPO cổ phiếu, được gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu các nhà đầu tư có đủ quan tâm đến đợt IPO, công ty sẽ nhận thấy một dòng tiền mặt đáng kể. Việc cổ phiếu được giao dịch công khai, với một giá trị xác định, giúp công ty có thêm uy tín đối với các nhà đầu tư khác và những người mua cổ phiếu.

Tuy nhiên, việc phát hành một đợt IPO rất tốn kém và nó có thể là một thảm họa nếu các nhà đầu tư không có hứng thú với cổ phiếu. Khi công ty niêm yết cổ phiếu, công ty sẽ cần phải tuân thủ các quy định bổ sung và yêu cầu công bố thông tin áp dụng cho các công ty giao dịch công khai. Việc đáp ứng những quy tắc đó cũng có thể cực kỳ tốn kém.