Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) gồm 16 chương, 245 điều, trong đó giữ nguyên 28 điều; sửa đổi, bổ sung 184 điều; bổ sung mới 41 điều và bãi bỏ 8 điều, quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, việc quản lý đất đai và chế độ sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của công dân, người sử dụng đất đối với đất đai thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Dự thảo Luật đã thể chế các định hướng trong Văn kiện Đại hội Đảng Khóa XIII, các Nghị quyết, kết luận của Đảng, của Quốc hội. Đặc biệt đã thể chế hóa 03 mục tiêu tổng quát, 06 mục tiêu cụ thể, 06 nhóm giải pháp và 08 nhóm chính sách lớn tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có nhiều nội dung mới:

1. Sửa quy định về đăng ký đất đai, cấp sổ đỏ

Ngoài các nội dung kế thừa Luật Đất đai 2013, Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi sửa đổi, bổ sung các nội dung sau:

- Sửa đổi bổ sung quy định về nội dung, vai trò của hồ sơ địa chính trong công tác quản lý đất đai tại Điều 107 dự thảo Luật. Trách nhiệm lập, cập nhật, khai thác hồ sơ địa chính tại khoản 1 Điều 109.

- Sửa đổi để phân định cụ thể thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đối với các đối tượng và trách nhiệm của tổ chức dịch vụ công đối với việc cấp Giấy chứng nhận cụ thể:

+ Hoàn thiện quy định về công nhận quyền đối với hộ gia đình, cá nhân không có các giấy tờ tại điểm a, b khoản 2 và khoản 3 Điều 115.

+ Sửa đổi, bổ sung các vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

+ Việc cấp Giấy chứng nhận được thực hiện trên cơ sở văn bản giấy tờ của cơ quan hành chính nhà nước, giấy tờ do cơ quan nhà nước khác đã xác lập và nhu cầu của người sử dụng đất tại Khoản 5 Điều 120 Quy định thống nhất việc cấp Giấy chứng nhận được cơ quan đăng ký thực hiện khoản 7 Điều 120.

Sửa quy định về đăng ký đất đai, cấp sổ đỏSửa quy định về đăng ký đất đai, cấp sổ đỏ
Sửa quy định về đăng ký đất đai, cấp sổ đỏSửa quy định về đăng ký đất đai, cấp sổ đỏ. Ảnh minh họa

- Bổ sung quy định về đăng ký khi có sự thay đổi về quyền sử dụng không gian ngầm và khoảng không về giá đất (phục vụ cho các nội dung về quản lý kinh tế đất) tại điểm n khoản 1 Điều 112.

- Xác lập giá trị pháp lý đối với trường hợp đăng ký đất đai, thông tin được ghi nhận vào sổ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai phù hợp với hệ thống đăng ký chứng quyền hiện nay các nước tiên tiến đang áp dụng tại khoản 1 Điều 136.

- Bổ sung chế tài đủ mạnh để làm rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tổ chức đăng ký đất đai, đồng thời ngăn chặn các trường hợp giao dịch mà không thực hiện đăng ký theo quy định của pháp luật.

- Quy định về đăng ký đất đai trên môi trường điện tử (đăng ký trực tuyến), trong đó có lộ trình để các địa phương thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận điện tử tại khoản 2 Điều 110.

- Luật hóa các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại Điều 121 của dự thảo luật.

2. Bỏ khung giá đất, sửa quy định về bảng giá đất, giá đất cụ thể

Hiện hành, quy định về khung giá đất được đề cập tại Điều 113 Luật Đất đai 2013 như sau:

“Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần đối với từng loại đất, theo từng vùng. Trong thời gian thực hiện khung giá đất mà giá đất phổ biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với giá tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá tối thiểu trong khung giá đất thì Chính phủ điều chỉnh khung giá đất cho phù hợp”.

Tuy nhiên, tại Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi đã bỏ quy định khung giá đất.

Đồng thời, sửa đổi quy định về bảng giá đất tại khoản 2, điểm c,d khoản 3, khoản 4 Điều 130 và giá đất cụ thể, Hội đồng thẩm định giá đất tại khoản 1, điểm e khoản 2 và khoản 3 Điều 131 của Dự thảo Luật.

Sáng ngày 1/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành trình bày tờ trình về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

Theo đó, về cơ chế, chính sách tài chính, giá đất; điều tiết quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội, dự thảo Luật bỏ quy định khung giá đất, quy định cụ thể nguyên tắc định giá đất phù hợp với giá trị thị trường, bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, trung thực, khách quan; bảng giá đất được xây dựng định kỳ hàng năm.

Đối với khu vực có bản đồ địa chính số và cơ sở dữ liệu giá đất thì bảng giá đất được xây dựng theo vùng giá trị, thửa đất chuẩn. Quy định các trường hợp áp dụng bảng giá đất, trong đó áp dụng bảng giá để để tính thuế thu nhập khi chuyển quyền sử dụng đất.

Ngoài ra sẽ mở rộng thành phần Hội đồng thẩm định giá đất với sự tham gia của đại diện Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức tư vấn, chuyên gia về giá đất để đảm bảo tính độc lập, khách quan. Phân cấp thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giá đất cụ thể phù hợp với thẩm quyền của cấp huyện trong giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích...

Hoàn thiện các quy định về miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, bổ sung các trường hợp miễn, giảm theo lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư, đối tượng chính sách… Bổ sung quy định về điều tiết nguồn thu từ đất về ngân sách trung ương để hỗ trợ cho các địa phương bảo vệ đất trồng lúa, đất rừng, nguồn sinh thủy, hỗ trợ phát triển.

Khung giá đất gồm: khung giá đất nông nghiệp, lâm nghiệp; đất khu dân cư nông thôn; đất đô thị, đầu mối giao thông, khu du lịch, khu thương mại và đất đô thị. Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất, khung giá các loại đất cho từng vùng, theo thời
Khung giá đất gồm: khung giá đất nông nghiệp, lâm nghiệp; đất khu dân cư nông thôn; đất đô thị, đầu mối giao thông, khu du lịch, khu thương mại và đất đô thị. Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất, khung giá các loại đất cho từng vùng, theo thời gian, các trường hợp phải điều chỉnh giá và việc xử lí chênh lệch giá đất liền kề giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh Uỷ ban Kinh tế tán thành sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Đất đai với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ.

Góp ý dự thảo Luật, liên quan đến nội dung thu hồi đất, báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Kinh tế đề nghị rà soát, quy định cụ thể hơn về điều kiện, tiêu chí cụ thể đối với trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Trong đó rà soát các trường hợp: "dự án tạo quỹ đất do Nhà nước đầu tư theo hướng tuyến giao thông và các điểm kết nối giao thông theo quy hoạch"; "dự án nhà ở tập trung cho công nhân làm việc trong khu công nghiệp"…

Liên quan đến trung dụng đất, báo cáo đề nghị quy định cụ thể hơn về việc trưng dụng đất, bồi thường về tài sản gắn liền với đất trong trường hợp người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất.

Về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất, báo cáo đề nghị định lượng cụ thể hơn, có quy định hướng dẫn chi tiết, cơ chế và phân công trách nhiệm giám sát, đánh giá việc thi hành nguyên tắc "Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ".

Về giá đất, Uỷ ban Kinh tế đề nghị làm rõ nguyên tắc định giá đất "phù hợp với giá trị thị trường quyền sử dụng đất trong điều kiện bình thường". Đề nghị làm rõ quy định rõ các tiêu chí và quy trình kiểm tra, giám sát các địa phương trong việc xây dựng bảng giá đất cũng như yêu cầu về HĐND cấp tỉnh quyết định và kiểm tra, giám sát việc thực hiện giá đất mà Nghị quyết 18 đặt ra. Đánh giá tính khả thi của quy định xây dựng bảng giá đất định kỳ hằng năm. Ngoài ra là làm rõ nội hàm của việc xây dựng bảng giá đất theo vị trí để phân biệt với giá đất cụ thể; cách xác định cụ thể "vùng giá trị", "thửa đất chuẩn"…

3. Bổ sung khoản thu tài chính từ đất đai

Dự thảo Luật bổ sung khoản thu tài chính từ đất đai gồm:

- Thu tiền sử dụng đất hàng năm khi sử dụng đất kết hợp với các mục đích khác;

- Tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tăng thêm đối với các dự án chậm tiến độ, không đưa đất vào sử dụng tại điểm a, c khoản 1 và khoản 2 Điều 126.

Bên cạnh đó, bổ sung các khoản thu từ dịch vụ công đất đai tại Điều 125; quy định về thời điểm tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trường hợp có điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết mà làm thay đổi sử dụng đất và việc quyết định giá đất để làm căn cứ tính thu nghĩa vụ tài chính tại khoản 3,4 Điều 126.

4. Bổ sung trường hợp thu hồi đất

Cụ thể, dự thảo Luật Đất đai sửa đổi bổ sung các trường hợp thu hồi đất như sau:

- Xây dựng cơ sở khám chữa bệnh của lực lượng vũ trang nhân dân.

- Xây dựng nhà khách của lực lượng vũ trang nhân dân.

- Đất được giao, cho thuê không phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố, công khai tại thời điểm giao đất, cho thuê đất.

- Thu hồi đất trong trường hợp chấm dứt dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư mà không thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng đất, bán tài sản gắn liền với đất theo quy định.

Đồng thời còn sửa đổi và quy định chi tiết hơn các trường hợp thu hồi đất đã được quy định tại Luật Đất đai 2013.

"Việc mở rộng thêm các trường hợp thu hồi đất như điều 70 Dự thảo Luật Đất đai là rất cần thiết để vừa tạo quỹ đất thực hiện dự án đầu tư công; vừa tạo quỹ đất tái định cư cho người có đất bị thu hồi; vừa tạo quỹ đất phục vụ đầu tư thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất, đấu giá quyền sử dụng đất", ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch HoREA nhận định.

Ông Châu nhận định thêm, các quy định trên đây còn nhằm để phát huy vai trò của Tổ chức phát triển quỹ đất, Qũy phát triển đất để tạo lập quỹ đất thực hiện dự án đầu tư công vừa tạo quỹ đất phục vụ tái định cư cho người có đất bị thu hồi; vừa tạo quỹ đất phục vụ đầu tư, phát triển kinh tế thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất, đấu giá quyền sử dụng đất để lựa chọn nhà đầu tư.

5. Bổ sung quy định về thời hạn sử dụng đất

- Bổ sung quy định thời hạn sử dụng ổn định lâu dài đối với: đất rừng sản xuất giao cho cộng đồng dân cư, đơn vị vũ trang, ban quản lý rừng tại khoản 3 Điều 140.

- Về đất sử dụng có thời hạn: Bổ sung khoản 10, 11 Điều 141 quy định thời hạn giao đất, cho thuê đất xây dựng công trình ngầm, đất xây dựng công trình trên không và việc gia hạn sử dụng đất.

- Bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 143 quy định về thời hạn sử dụng đất đối với trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức sử dụng của hộ gia đình, cá nhân thông qua việc giải quyết hợp đồng thế chấp để xử lý nợ, quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án.

- Bổ sung Điều 144 quy định về thời hạn sử dụng đất thực hiện dự án đầu tư; điều chỉnh, gia hạn thời hạn sử dụng đất của dự án.

6. Sửa đổi, bổ sung quy định người sử dụng đất

Sửa đổi, bổ sung quy định người sử dụng đất tại khoản 1 và khoản 6 Điều 6 của Dự thảo Luật để thống nhất với quy định của Bộ Luật Dân sự, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Đầu tư;

“Điều 6. Người sử dụng đất

Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất; thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao theo quy định của Luật này, bao gồm:

1. Tổ chức trong nước gồm:

a) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp công lập và tổ chức khác theo quy định của pháp luật về dân sự;

b) Tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật về đầu tư, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này;

c) Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc sử dụng đất (sau đây gọi chung là tổ chức tôn giáo).

6. Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật về đầu tư (sau đây gọi chung là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).”

Bên cạnh đó, bổ sung đất chăn nuôi tập trung vào nhóm đất nông nghiệp, sửa đổi làm rõ đã nông nghiệp khác để tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện trong phân loại đất tại khoản 1 Điều 11.

7. Giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá, đấu thầu dự án

Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi đã quy định cụ thể về đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất; hạn chế và quy định chặt chẽ các trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất tại Điều 63, 64.

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định này đã tạo điều kiện tiếp cận đất đai một cách minh bạch, công bằng và phát huy nguồn lực đất đai một cách triệt để nhất.

Thể chế nội dung này, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã thể chế hóa theo hướng: Về thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất đã được thể chế tại các Điều 63, 64 và 65 của dự thảo Luật theo phương thức loại trừ dần.

Theo đó, giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất chủ yếu áp dụng cho các trường hợp được giao đất không thu tiền sử dụng đất, được miễn tiền sử dụng đất và thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước (Điều 63).

Giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất được áp dụng đối với trường hợp: Dự án có quy mô sử dụng đất lớn (từ 100 ha trở lên); Có yêu cầu động lực lan tỏa về phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu về điểm nhấn kiến trúc, phát triển đô thị; Khu đất chưa được đầu tư hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, không phải là khu dân cư tập trung; Dự án đáp ứng hiệu quả tổng hợp về sử dụng đất, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường và yêu cầu nhà đầu tư có năng lực về tài chính, có kinh nghiệm triển khai dự án và cam kết về tiến độ hoàn thành dự án với thời gian ngắn nhất (Điều 64).

Đối với các trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất còn lại thì phải thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất (Điều 65).

Đồng thời, dự thảo Luật bổ sung quy định về điều kiện đối với quỹ đất được lựa chọn để thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tổ chức thực hiện. Các quy định nêu trên nhằm tạo điều kiện tiếp cận đất đai một cách công khai minh bạch, công bằng và phát huy nguồn lực đất đai.

Về cụ thể hóa các trường hợp thuê đất: đã được quy định tại Điều 58 về cho thuê đất. Theo đó, các trường hợp được áp dụng hình thức thuê trả tiền một lần hoặc lựa chọn trả tiền hàng năm gồm: sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; sử dụng đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất.

Các trường hợp còn lại được áp dụng hình thức thuê trả tiền hàng năm.

Quy định này vừa thể chế đúng tinh thần của Nghị quyết, vừa tạo điều kiện cho người sử dụng đất tập trung nguồn vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh.

Về giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức tôn giáo: được thể chế tại Điều 56 và Điều 178 về giao đất không thu tiền sử dụng đất cho tổ chức tôn giáo sử dụng đất làm cơ sở thờ tự, trụ sở của các tổ chức tôn giáo.

Về phân cấp, phân quyền trong công tác chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ được quy định tại Điều 60, theo đó giao toàn bộ thẩm quyền này cho địa phương.

Đồng thời, dự thảo Luật cũng quy định cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với nội dung này.

Giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá, đấu thầu dự án. Ảnh minh họa
Giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá, đấu thầu dự án. Ảnh minh họa

8. Sửa quy định về quyền của người sử dụng đất

- Bổ sung quy định tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định không phụ thuộc vào nơi cư trú, nơi đóng trụ sở tại khoản 2 Điều 192.

- Bổ sung thêm quyền của người sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm mà đã ứng trước tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng mà chưa khấu trừ hết vào tiền thuê đất phải nộp thì được thế chấp, bán tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất và quyền thuê đất trong hợp đồng thuê đất tại khoản 2 Điều 212.

- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 206 cho phép tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có sử dụng đất được hình thành do mua cổ phần, phần vốn góp thì có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với hình thức nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.

9. Quyền của người sử dụng đất đối trong các khu vực quy hoạch

Bổ sung, hoàn thiện các quy định tại khoản 5 khoản 6 Điều 51 về việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất đối trong các khu vực quy hoạch, cụ thể:

“Điều 51. Tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

5. Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất cấp huyện đã được phê duyệt thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 03 năm kể từ ngày phê duyệt năm được đưa vào kế hoạch sử dụng đất mà chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh hoặc hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh hoặc hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất.

Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố công khai thì người sử dụng đất không bị hạn chế về các quyền sử dụng đất đã được pháp luật quy định.

6. Đối với những dự án đầu tư công mà nếu quá 05 năm kể từ năm được đưa vào kế hoạch sử dụng đất mà chưa thực hiện thì người sử dụng đất trong vùng quy hoạch được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.”