Quý I/2025 đã chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng của ngành nông, lâm, thủy sản (NLTS) Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu đạt 15,72 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là kết quả đáng khích lệ, phản ánh nỗ lực của ngành trong việc mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và tận dụng các cơ hội từ hội nhập quốc tế.
Theo số liệu ước tính của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu NLTS trong tháng 3/2025 đạt 6,14 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 3 tháng đầu năm lên 15,72 tỷ USD. So với cùng kỳ năm 2024, giá trị xuất khẩu tăng 13,1%, cho thấy sự phục hồi và tăng trưởng ổn định của ngành. Trong đó, các nhóm hàng chính ghi nhận mức tăng trưởng như sau: nông sản đạt 8,53 tỷ USD (tăng 12,2%), chăn nuôi đạt 131,3 triệu USD (tăng 18,5%), thủy sản đạt 2,29 tỷ USD (tăng 18,1%), lâm sản đạt 4,21 tỷ USD (tăng 11,2%), đầu vào sản xuất đạt 549,5 triệu USD (tăng 19,6%), và muối đạt 2,3 triệu USD (tăng 2,4 lần).
Xét theo thị trường, châu Á tiếp tục là khu vực xuất khẩu lớn nhất, chiếm 42% thị phần, theo sau là châu Mỹ (22,5%) và châu Âu (16,6%). So với cùng kỳ năm 2024, giá trị xuất khẩu sang châu Á tăng 2%, châu Mỹ tăng 15,7%, châu Âu tăng mạnh 37,8%, châu Phi tăng 2,1 lần, và châu Đại Dương tăng nhẹ 0,8%. Trong số các thị trường cụ thể, Hoa Kỳ dẫn đầu với thị phần 20,2%, đạt giá trị xuất khẩu tăng 13,5%. Trung Quốc và Nhật Bản lần lượt chiếm 17,3% và 7,7% thị phần, với mức tăng trưởng tương ứng là 3,6% và 26%.
Xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực: Tăng giá trị, giảm khối lượng
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có nhiều ngành hàng mang về giá trị thương mại tích cực hơn rất nhiều dù giảm khối lượng xuất khẩu. Điều này cho thấy giá trị các sản phẩm đã được nâng tầm chất lượng và đáp ứng được nhu cầu của thị trường quốc tế.
Quý I/2025, xuất khẩu cà phê đạt 509,5 nghìn tấn, giảm 12,9% về khối lượng nhưng tăng mạnh 49,5% về giá trị, đạt 2,88 tỷ USD. Giá cà phê xuất khẩu bình quân đạt 5.656 USD/tấn, tăng 71,7% so với cùng kỳ năm 2024, nhờ nhu cầu tiêu thụ cà phê chất lượng cao tăng mạnh. Đức, Italia và Nhật Bản là 3 thị trường lớn nhất, với giá trị xuất khẩu tăng lần lượt 79,3%, 31,9% và 56,1%. Thị trường Ba Lan ghi nhận mức tăng mạnh nhất (3,1 lần), trong khi Indonesia giảm 37,5%.
Xuất khẩu cao su đạt 396,1 nghìn tấn, giảm 4,4% về khối lượng nhưng tăng 26,1% về giá trị, đạt 765,8 triệu USD. Giá cao su bình quân đạt 1.933,3 USD/tấn, tăng 31,9%. Trung Quốc là thị trường lớn nhất, chiếm 73,7% thị phần, với giá trị xuất khẩu tăng 21,9%. Thị trường Indonesia tăng mạnh 3,1 lần, trong khi Ấn Độ giảm 27,5%. Malaysia ghi nhận mức tăng cao nhất (8,3 lần), còn Đức giảm mạnh nhất (29,9%).
Xuất khẩu chè đạt 27,3 nghìn tấn, tăng 3% về khối lượng và 2,7% về giá trị, đạt 44,4 triệu USD. Giá chè bình quân đạt 1.622,4 USD/tấn, giảm nhẹ 0,2%. Pakistan, Đài Loan và Nga là 3 thị trường lớn nhất, với giá trị xuất khẩu tại Nga tăng 33,5%, trong khi Pakistan và Đài Loan giảm lần lượt 11,8% và 5,7%. Philippines tăng mạnh nhất (4,1 lần), còn Ba Lan giảm mạnh nhất (67,6%).
Xuất khẩu hạt điều đạt 121,4 nghìn tấn, giảm 19,3% về khối lượng nhưng tăng 4,3% về giá trị, đạt 841,1 triệu USD. Giá bình quân đạt 6.929,2 USD/tấn, tăng 29,1%. Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc là 3 thị trường lớn nhất, với Hà Lan tăng 43,5%, trong khi Hoa Kỳ và Trung Quốc giảm lần lượt 14,5% và 50%. Pháp tăng mạnh nhất (46,1%).
Xuất khẩu hạt tiêu đạt 47,3 nghìn tấn, giảm 16,7% về khối lượng nhưng tăng 37,3% về giá trị, đạt 323,6 triệu USD. Giá bình quân đạt 6.845,4 USD/tấn, tăng 64,9%. Hoa Kỳ, Đức và Ấn Độ là 3 thị trường lớn nhất, với Đức tăng mạnh nhất (2,4 lần).
Giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 2,29 tỷ USD, tăng 18,1%. Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ là 3 thị trường lớn nhất, với Trung Quốc tăng mạnh nhất (75,9%). Đài Loan giảm 2,7%.
Giá trị xuất khẩu gỗ đạt 3,95 tỷ USD, tăng 11,6%. Hoa Kỳ chiếm 53,1% thị phần, với giá trị tăng 9,5%. Ấn Độ tăng mạnh nhất (95,9%), trong khi Hà Lan giảm 45,1%.
Cán cân thương mại ngành NLTS trong quý I/2025 đạt thặng dư 4,4 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2024. Nhóm lâm sản thặng dư 3,54 tỷ USD (tăng 9,1%), thủy sản thặng dư 1,51 tỷ USD (tăng 14,1%), và nông sản thặng dư 1,48 tỷ USD (tăng 16,9%). Trong khi đó, nhóm đầu vào sản xuất thâm hụt 1,21 tỷ USD, sản phẩm chăn nuôi thâm hụt 905,7 triệu USD, và muối thâm hụt 4,6 triệu USD. Các mặt hàng có thặng dư cao nhất bao gồm gỗ (3,29 tỷ USD), cà phê (2,79 tỷ USD), và tôm (792,6 triệu USD).
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhìn nhận, những thay đổi trong chính sách thuế và các yêu cầu của các thị trường quốc tế sẽ tác động đến thị trường xuất khẩu NLTS tới đây. Đặc biệt là thị trường Mỹ đang áp dụng các biện pháp thuế quan mới đối với nhiều mặt hàng, bao gồm các sản phẩm nông sản.
Tuy nhiên Thứ trưởng Tiến cũng nhấn mạnh, để đối phó với những thay đổi này, Việt Nam đã có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng, mềm dẻo, trong đó có việc chủ động xây dựng các kịch bản ứng phó và hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan. Đồng thời, các cơ quan chuyên môn cũng đã làm việc với các đối tác quốc tế để giảm thiểu tác động tiêu cực và tìm ra các giải pháp hiệu quả nhất cho ngành nông sản Việt Nam.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính chung 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 9,38 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Bộ Thương mại Trung Quốc thông báo sẽ áp thuế chống bán phá giá từ 33,3% đến 78,2% đối với sợi quang đơn mốt (mode) có xuất xứ từ Mỹ, sau khi kết luận các doanh nghiệp Mỹ né tránh các biện pháp phòng vệ thương mại.
Giá xăng, dầu cùng tăng từ 15 giờ hôm nay, sau điều chỉnh của Liên Bộ Công thương-Tài chính. Đây là thông tin điều hành giá xăng dầu theo định kỳ vừa được Bộ Công thương công bố.
Giá dầu WTI đã leo lên mốc 64,6 USD/thùng, tương ứng với mức tăng 0,7%, giá dầu Brent cũng ghi nhận mức tăng khoảng 0,84%, dừng ở mốc 68,62 USD/thùng, mốc cao nhất trong vòng hơn ba tuần trở lại đây.
Thị trường nông sản chìm trong sắc đỏ khi toàn bộ 7 mặt hàng đồng loạt giảm giá. Đáng chú ý, ngô quay đầu mất 0,85% xuống 159,8 USD/tấn, chịu sức ép từ cả nguồn cung và nhu cầu.
Giá dầu Brent hồi phục lên mốc 68,05 USD/thùng, tương ứng với mức tăng 1,23%; trong khi giá dầu WTI cũng ghi nhận mức tăng khoảng 1,42%, dừng ở mốc 64,15 USD/thùng.
Sáng ngày 27/8/2025, thị trường cà phê trong nước ghi nhận sự ổn định sau nhiều phiên tăng liên tiếp. Tại khu vực Tây Nguyên – thủ phủ cà phê Việt Nam, giá thu mua Robusta nhân xô dao động quanh mức 121.500 – 122.000 đồng/kg, tương đương với phiên liền trước.
Giá dầu thế giới có thời điểm giảm hơn 2% trong phiên giao dịch ngày 26/8, chấm dứt đà tăng của phiên trước, do các nhà đầu tư thận trọng trước những diễn biến liên quan đến thuế quan của Mỹ và nguy cơ gián đoạn nguồn cung nhiên liệu từ Nga.
Trong nước, giá thép xây dựng đã tăng trở lại sau ba lần điều chỉnh giảm liên tiếp. Thép cuộn CB240 hiện ở mức 13,3 triệu đồng/tấn, thép thanh vằn D10 CB300 đạt 12,99 triệu đồng/tấn.
Rủi ro gián đoạn nguồn cung dầu từ Nga đang hỗ trợ giá dầu, trong khi nỗ lực tăng sản lượng trở lại của OPEC+ đang gây áp lực giảm giá dầu, theo chiến lược gia Ole Hansen của ngân hàng Saxo Bank.
Mỹ nhập tới 316 triệu USD rau quả từ Việt Nam trong 8 tháng đầu năm, tăng 67% so với cùng kỳ năm ngoái. Chuối, ổi, thanh long, dừa tươi và các sản phẩm chế biến từ xoài, dừa... được người Mỹ ưa chuộng.
Từ 15h00 ngày 21/8, giá xăng RON95-III: không cao hơn 20.092 đồng/lít (tăng 208 đồng/lít so với giá cơ sở hiện hành); Dầu diesel 0.05S: không cao hơn 17.905 đồng/lít (giảm 172 đồng/lít so với giá cơ sở hiện hành).
Dựa theo diễn biến giá xăng dầu thế giới, các doanh nghiệp xăng dầu nhận định giá xăng trong nước vào ngày mai có thể được điều chỉnh tăng còn giá dầu có khả năng giảm.
Giá cà phê Arabica ghi nhận mức tăng hơn 3,6% lên mức 7.852 USD/tấn trong khi giá cà phê Robusta cũng tăng tới hơn 6,1% lên mức 4.410 USD/tấn, mức cao nhất trong vòng hơn hai tháng qua.
Giá cà phê Arabica ghi nhận mức tăng tới hơn 10% trong tuần vừa qua, lên mức 7.532 USD/tấn trong khi giá cà phê Robusta đã tăng tới gần 18%, đạt mức 4.201 USD/tấn.
ACV là viết tắt của Airports Corporation of Vietnam tên giao dịch quốc tế của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam - CTCP trên cơ sở hợp nhất 3 tổng công ty. ACV được giao quản lý, điều phối hoạt động và đầu tư khai thác toàn bộ hệ thống 22 cảng hàng không trên toàn lãnh thổ Việt Nam bao gồm 9 sân bay quốc tế và 13 sân bay nội địa.
Công ty CP Vietcap đứng vị trí 196 trong danh sách 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. Chứng khoán Vietcap là gì? Công ty CP Vietcap uy tín không? Có nên mở tài khoản tại chứng khoán Bản Việt không?
Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt đứng ở vị trí số 195 trong danh sách 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt kinh doanh gì? Tấm lợp Olympic có tốt không?
ACV là viết tắt của Airports Corporation of Vietnam tên giao dịch quốc tế của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam - CTCP trên cơ sở hợp nhất 3 tổng công ty. ACV được giao quản lý, điều phối hoạt động và đầu tư khai thác toàn bộ hệ thống 22 cảng hàng không trên toàn lãnh thổ Việt Nam bao gồm 9 sân bay quốc tế và 13 sân bay nội địa.
Công ty CP Vietcap đứng vị trí 196 trong danh sách 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. Chứng khoán Vietcap là gì? Công ty CP Vietcap uy tín không? Có nên mở tài khoản tại chứng khoán Bản Việt không?
Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt đứng ở vị trí số 195 trong danh sách 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt kinh doanh gì? Tấm lợp Olympic có tốt không?