Kết quả khảo sát của Viện VLI cho thấy, có 38,24% doanh nghiệp logistics cho rằng COVID -19 đã hình thành nhu cầu chuyển đổi số, trong khi, 42,65% doanh nghiệp cho rằng tác động của COVID-19 chính là làm thay đổi nhu cầu của khách hàng (chẳng hạn sử dụng giao dịch điện tử nhiều hơn, dịch vụ giao hàng thương mại điện tử...) ngoài ra còn có những xu hướng khác được hình thành như thay đổi quan niệm điều hành doanh nghiệp logistics, khả năng làm việc từ xa.

Các doanh nghiệp tham gia khảo sát thể hiện sự quan tâm và đánh giá vai trò quan trọng của chuyển đổi số, tuy nhiên, đây là quá trình đang phát sinh nhiều khó khăn, rào cản.

Đó là sự tương thích về công nghệ giữa doanh nghiệp của mình và các đối tác trong chuỗi dịch vụ logistics (44,74% doanh nghiệp), kinh phí hạn hẹp và nhân lực hạn chế (42,11% doanh nghiệp), chưa tìm được công nghệ chuyển đổi phù hợp (39,47% doanh nghiệp) và có 28,95% doanh nghiệp băn khoăn không biết nên dành kinh phí đầu tư như thế nào cho phù hợp và nên khởi đầu như thế nào trong quá trình chuyển đổi số.

Ngoài ra, việc chuyển đổi lượng thông tin hiện hữu với khối lượng khổng lồ lên nền tảng số cũng là trở ngại cho 15,97% doanh nghiệp.

“Trong khi đó, các doanh nghiệp logistics lại không chú trọng đến tính an toàn và khả năng bảo mật thông tin của các nền tảng trực tuyến khi chỉ có 5,26% doanh nghiệp cho rằng đây là cản trở cho quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp”, nghiên cứu của Viện VLI nhấn mạnh.

Doanh nghiệp logistics Việt còn lơ là bảo mật thông tin.

Kết quả khảo sát nêu trên cho thấy, để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ, cần có sự hợp tác chặt chẽ các doanh nghiệp logistics với các đối tác trong mạng lưới toàn chuỗi dịch vụ để có thể có sự quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn ứng dụng hay nền tảng phù hợp.

Chuyển đổi số phụ thuộc rất nhiều vào tư duy của người lãnh đạo doanh nghiệp và phải được xem như là chiến lược của các doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Thực tế, các doanh nghiệp logistics có đặc điểm vận hành với số lượng dữ liệu quy mô lớn (big data), số lượng đơn hàng có thể từ vài trăm ngàn đến triệu đơn hàng/1 ngày thì nhu cầu chuyển đổi số trở thành một vấn đề cấp thiết và là điều kiện tiên quyết để thực hiện hoạt động.

Một điều đáng ghi nhận là mặc dù có rất nhiều khó khăn tác động đến việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số của các doanh nghiệp logistics Việt, nhưng các doanh nghiệp đã rất nỗ lực đầu tư và ứng dụng công nghệ thông tin cần thiết trong thực hiện dịch vụ logistics chủ yếu.

Cụ thể, 75% doanh nghiệp đang sử dụng FMS (phần mềm quản lý giao nhận); 63,89% doanh nghiệp đang sử dụng phần mềm OMS và WMS (phần mềm quản lý đơn hàng, phần mềm quản lý kho hàng); 61,11% doanh nghiệp đang sử dụng TMS (phần mềm quản lý vận tải).

Những ứng dụng có thể tối ưu hóa công tác vận hành như VRP (hệ thống định tuyến phương tiện) hay hệ thống lưu trữ và lấy hàng tự động AS/RS, xe lấy hàng tự động (Automatic guided vehicle) thì còn rất ít doanh nghiệp sử dụng với tỉ lệ tương ứng là 19,4%, 16,67% và 11,11%.

Đặc biệt, ứng dụng công nghệ bay không người lái (Drone) hoàn toàn chưa được sử dụng, nhưng có tới 11,11% doanh nghiệp logistics Việt có kế hoạch sẽ sử dụng trong tương lai.