Theo tài liệu, trong năm 2023, VietinBank đặt mục tiêu tăng trưởng 5-10% tổng tài sản so cùng kỳ năm trước. Dư nợ tín dụng tăng theo hạn mức được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giao trong từng thời kỳ. Nguồn vốn huy động tăng trưởng phù hợp với tốc độ tăng trưởng tín dụng, đảm bảo các chỉ số an toàn thanh khoản. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tín dụng kiểm soát dưới 1.8%.

Lợi nhuận trước thuế riêng lẻ theo sự phê duyệt của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ngân hàng cho biết sẽ tiếp tục cải thiện mạnh mẽ hiệu quả kinh doanh, thực hiện tốt vai trò ngân hàng chủ lực, trụ cột và chủ đạo của nền kinh tế.

Nguồn: Tài liệu ĐHĐCĐ thường niên 2023 của VietinBank
Nguồn: Tài liệu ĐHĐCĐ thường niên 2023 của VietinBank

Ngoài ra, về vấn đề chia cổ tức, VietinBank cho biết tỷ lệ chi trả cổ tức và cơ cấu chi trả (tiền mặt, cổ phiếu) sẽ thực hiện theo sự phê duyệt của Cơ quan Nhà nước.

Theo đó, trong năm 2022, lợi nhuận riêng lẻ sau thuế của VietinBank là 16.379 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế sau trích các quỹ bắt buộc và khen thưởng phúc lợi là 11.521 tỷ đồng. VietinBank dự định sẽ sử dụng số tiền này để chia cổ tức bằng cổ phiếu theo phê duyệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, ĐHCĐ năm nay của VietinBank cũng sẽ thông qua phương án trả thù lao năm 2023 cho HĐQT và Ban Kiểm soát ngân hàng. VietinBank cho biết, tỷ lệ thù lao chi trả năm 2022 đối với thành viên HĐQT và BKS chỉ bằng 0,16% lợi nhuận sau thuế 2022, thấp hơn mức 0,28% đã được ĐHCĐ 2022 phê duyệt trước đó.

Trong năm 2023, HĐQT ngân hàng đề xuất ĐHCĐ phê duyệt mức thù lao cho HĐQT và BKS bằng tối đa 0,28% lợi nhuận sau thuế hợp nhất năm.

Tính đến hết năm 2022, tổng tài sản của VietinBank tăng 18,1% đạt 1,8 triệu tỷ đồng. Cho vay khách hàng tăng 12,7% đạt hơn 1,27 triệu tỷ đồng. Tiền gửi của khách hàng tăng 7,5% đạt gần 1,25 triệu tỷ đồng.

Số dư nợ xấu của ngân hàng VietinBank tăng hơn 10% đạt 15.796 tỷ đồng, tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu nội bảng (tỷ lệ nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5) lại giảm nhẹ từ 1,26% cuối năm

ĐHĐCĐ thường niên 2022 đã thông qua việc niêm yết các trái phiếu phát hành ra công chúng trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX). Hiện, VietinBank đang tiến hành các thủ tục cần thiết để xin chấp thuận của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với phương án chào bán trái phiếu ra công chúng năm 2022. Sau khi hoàn thành việc phát hành trái phiếu ra công chúng, VietinBank sẽ thực hiện các thủ tục liên quan đăng ký niêm yết các trái phiếu trên HNX theo đúng quy định.

VietinBank đặt mục tiêu tăng trưởng tổng tài sản 5-10% năm 2023

Theo Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định dự báo tăng trưởng lợi nhuận của VietinBank có thể bị chững lại trước những bất ổn sắp tới trong năm 2023.

NIM của ngân hàng dự báo sẽ giảm khoảng 0,03 điểm % do lợi suất tài sản có thể không tăng nhiều như chi phí huy động vốn. Cùng với tăng trưởng tín dụng 11%, các chuyên gia kỳ vọng thu nhập lãi thuần sẽ tăng 11% so với cùng kỳ.

Bancassurance sẽ tiếp tục thúc đẩy thu nhập dịch vụ (tăng 12% so với cùng kỳ) nhưng thu nhập từ thu hồi nợ có thể giảm trong năm khó khăn này và thu nhập từ giao dịch ngoại hối có thể không duy trì ở mức cao như năm 2022, dẫn đến thu nhập ngoài lãi giảm 2%. Do đó, nhóm phân tích dự báo, tổng thu nhập hoạt động của ngân hàng tăng 8% so với cùng kỳ.

Nhóm nghiên cứu của VDSC cũng nhận định, trong vài năm trở lại đây, VietinBank đã từng bước nâng cao chất lượng tài sản và bộ đệm dự phòng nên áp lực về chi phí rủi ro trong năm 2023 sẽ ít hơn so với giai đoạn khó khăn trước đó.

Bên cạnh đó, cùng với dư địa tăng trưởng thu nhập phí tiềm năng trong trung hạn và NIM cải thiện đều đặn nhờ chuyển dịch sang mảng bán lẻ, chuyên gia kỳ vọng VietinBank sẽ quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng từ năm 2024. Lợi nhuận trước thuế dự báo cho năm 2023 và 2024 lần lượt là 23.600 tỷ đồng (tăng 12%) và 29.684 tỷ đồng (tăng 26%).

Về chất lượng tài sản, trong quý 4/2022, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng là 1,24%, giảm từ 1,42% trong quý 3/2022 và 1,26% trong quý 4/2021. Nhóm chuyên gia nhận định, mặc dù tỷ lệ nợ xấu có sự cải thiện trên cả cơ sở quý và năm, nhưng con số này là kết quả của việc xóa nợ 15.000 tỷ đồng trong quý 4/2022, tương đương 1,2% tổng dư nợ.

Khoản xóa nợ đến từ các lĩnh vực đa dạng bao gồm xây dựng, chuỗi giá trị bất động sản, sản xuất, dịch vụ lưu trú,... Bên cạnh đó, tỷ lệ hình thành nợ nhóm 2 và nợ xấu đã tăng mạnh từ quý 3/2022. Nợ xấu và nợ nhóm 2 trên tổng dư nợ lần lượt đạt 1,2% và 2,3% vào cuối năm.

Các chuyên gia của VDSC khẳng định: "Cần phải theo dõi tốc độ chuyển nhóm cũng như khả năng hồi phục của nhóm nợ này vì nó có thể thay đổi đáng kể đến chi phí trích lập dự phòng trong quý tới".

Về bộ đệm dự phòng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu trong quý 4/2022 đã giảm xuống 188,4% sau khi đạt mức cao nhất là 222,4% trong quý 3/2022 và không thay đổi so với năm ngoái. Tuy nhiên, bộ đệm dự phòng đã được cải thiện qua từng năm từ 95% vào năm 2018 lên 188% vào năm 2022.