Nước sông Mê Kông đột ngột dâng cao 2 mét

Từ đầu tháng 4 đến nay, mực nước sông Mê Kông cao - thấp bất thường theo sự đóng - xả của các đập thủy điện.

Trong các bản tin của cả Ủy hội sông Mê Kông quốc tế (MRC) và Dự án theo dõi tác động của các đập thủy điện đến sông Mê Kông - Mekong Dam Monitoring (MDM) luôn nhấn mạnh đến sự bất thường này.

Trước đó, từ tuần đầu tháng 3 các đập thủy điện xả gần 1 tỉ mét khối nước xuống hạ nguồn làm mực nước sông Mê Kông tăng mạnh. Tuần tiếp theo tăng rất mạnh khi có đến 16/45 đập đồng loạt xả nước; riêng đập Nọa Trác Độ và Tiểu Loan (cùng của Trung Quốc) đã xả tổng cộng 2 tỉ mét khối nước khiến vùng hạ lưu sông Mê Kông ghi nhận mực nước nhiều nơi tăng 2m so với dòng chảy tự nhiên của trung bình nhiều năm.

ừ 18 - 24.4, có 18/45 đập đã xả nước, trong đó 80% lượng nước đến từ đập Nọa Trát Độ và đập Tiểu Loan (Trung Quốc). Riêng đập Nọa Trát Độ đã xả khoảng 1,2 tỉ mét khối nước. Tổng lượng nước mà 18 con đập xả ra khoảng 2,4 tỉ mét khối, lập kỷ lục kể từ khi bắt đầu mùa khô vào tháng 12.2021.
Từ 18 - 24/4, có 18/45 đập đã xả nước, trong đó 80% lượng nước đến từ đập Nọa Trát Độ và đập Tiểu Loan (Trung Quốc). Riêng đập Nọa Trát Độ đã xả khoảng 1,2 tỉ mét khối nước. Tổng lượng nước mà 18 con đập xả ra khoảng 2,4 tỉ mét khối, lập kỷ lục kể từ khi bắt đầu mùa khô vào tháng 12.2021.

Từ 18 - 24/4, có 18/45 đập đã xả nước, trong đó 80% lượng nước đến từ đập Nọa Trát Độ và đập Tiểu Loan (Trung Quốc). Riêng đập Nọa Trát Độ đã xả khoảng 1,2 tỉ mét khối nước. Tổng lượng nước mà 18 con đập xả ra khoảng 2,4 tỉ mét khối, lập kỷ lục kể từ khi bắt đầu mùa khô vào tháng 12/2021, MDM cho biết. Việc xả nước làm mực nước sông Mê Kông đột ngột dâng cao 2 mét tại Chiang Saen (Thái Lan).

Dự án MDM cũng nhận định, việc xả nước hàng loạt như vậy có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến các cộng đồng địa phương, nhưng không có thông báo nào được đưa ra bởi các nhà điều hành đập của Trung Quốc. Chính phủ Thái Lan và Lào đã thông báo cho các cộng đồng gần các khu vực dễ bị tổn hại sau khi một cảnh báo sớm được phát ra bởi MDM. "Những sự thay đổi thường xuyên và nghiêm trọng về mức độ này sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành thủy sản ở hạ nguồn, những vùng đất ngập nước và các cộng đồng sống dựa vào sông Mê Kông”, MDM nhận định.

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, mực nước trên sông Tiền tại Tân Châu và trên sông Hậu tại Châu Đốc từ đầu tháng 4 đến nay thường xuyên duy trì ở mức cao hơn trung bình nhiều năm từ 0,3 - 0,4 mét.

Mực nước sông Mê Kông ảnh hưởng thế nào tới Đồng bằng sông Cửu Long?

Chuyên gia về sinh thái ĐBSCL - Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện cho biết, yác động tích cực của việc xả nước trong mùa khô là làm giảm hạn mặn cho vùng ven biển ĐBSCL, còn tác động tiêu cực thì rất nhiều, ảnh hưởng lâu dài và khó thấy hơn.

Cụ thể, việc tích nước trong mùa lũ làm cho dòng chảy lũ bị yếu đi, không còn đủ sức để tải phù sa, bùn cát về ĐBSCL. Việc thiếu phù sa, cát thì sạt lở bờ sông, bờ biển ĐBSCL sẽ ngày càng gia tăng và không có cách gì để khắc phục. Cát sẽ ngày càng khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu xây dựng, giá tăng cao ảnh hưởng tới phát triển hạ tầng xây dựng nói chung và cả xây dựng dân dụng. Sạt lở dẫn tới tình trạng mất nhà cửa, tài sản, tính mạng của người dân ngày càng trầm trọng hơn. Về lâu dài, sạt lở sẽ làm tan rã đồng bằng nhanh hơn, đe dọa chính sự tồn tại của ĐBSCL.

Sự bất thường của dòng nước sông Mê Kông trong những ngày đầu tháng 4 là sự tăng giảm đột ngột với biên độ phổ biến từ 0,5 - 1 m.
Sự bất thường của dòng nước sông Mê Kông trong những ngày đầu tháng 4 là sự tăng giảm đột ngột với biên độ phổ biến từ 0,5 - 1 m.

Ngoài ra việc tích nước mùa lũ như vậy sẽ làm biến mất mùa lũ, làm đất đai bạc màu. Nguồn lợi thủy sản tự nhiên từ mùa lũ bị sụt giảm nghiêm trọng. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến sinh kế của rất nhiều người dân, đặc biệt là dân nghèo.

Không những vậy, việc xả nước trong mùa khô diễn ra từng đợt như thực tế chứng minh làm cho mực nước biến động bất thường tạo ra những tín hiệu giả của dòng sông, khiến hệ sinh thái bị rối loạn. Ví dụ giữa mùa khô mà nước dâng lên bất ngờ thì cá tôm sẽ tưởng là mùa nước đã tới nên bắt đầu bơi ngược dòng để sinh sản. Đến khi mùa nước thật đến lại không còn sinh sản được nữa.

Việc xả nước không liên tục mà lúc xả lúc đóng sẽ khiến người nông dân cũng không biết để điều chỉnh mùa vụ cho phù hợp. Nhưng việc xả nước này là trong điều kiện bình thường, còn những năm khô hạn cực đoan thì các đập này sẽ đóng đập tích nước để chờ đầy nước mới hoạt động. Họ phát điện theo kiểu gián đoạn càng làm cho tình hình hạn mặn ở ĐBSCL nghiêm trọng hơn.

Cần chủ động hơn nữa trong sản xuất nông nghiệp

Theo dự báo của Bộ Tài nguyên và Môi trường dựa vào mực nước biển dâng và sự thay đổi dòng chảy ở hạ lưu sông Mê Kông, trong 50 năm tới, khoảng 47% diện tích của ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng bởi độ mặn 4 phần nghìn và có tới 64% diện tích ảnh hưởng bởi độ mặn 1 phần nghìn. Vùng thuộc bán đảo Cà Mau là vùng bị nhiễm mặn nghiêm trọng nhất.

Với hệ thống hạ tầng kiểm soát lũ, mặn và thâm canh lúa hiện nay tại ĐBSCL, một số vùng đang gặp các khó khăn về úng ngập cục bộ do không tiêu thoát được nước khi cùng lúc triều cường dâng cao và dòng chảy xuống lũ lên nhanh. Một số khu vực thuộc bán đảo Cà Mau tiếp tục có nguy cơ thiếu nước ngọt mùa khô ngày càng nghiêm trọng khi xa các nhánh sông lớn.

Việc tích - xả này đơn thuần chỉ vì lợi ích các nhà đầu tư đập chứ không phải vì lợi ích chung của cộng đồng dân trong lưu vực. Tác động tích cực của việc xả nước trong mùa khô là làm giảm hạn mặn cho vùng ven biển ĐBSCL, còn tác động tiêu cực thì rất nhi
Việc tích - xả nước tại các thủy điện đơn thuần chỉ vì lợi ích các nhà đầu tư đập chứ không phải vì lợi ích chung của cộng đồng dân trong lưu vực. Tác động tích cực của việc xả nước trong mùa khô là làm giảm hạn mặn cho vùng ven biển ĐBSCL, nhưng tác động tiêu cực thì rất nhiều, ảnh hưởng lâu dài và khó thấy hơn.

Cùng với đó, việc hệ thống canh tác thâm canh lúa và thủy sản thiếu xử lý chất thải làm ô nhiễm nguồn nước mặt (kể cả nước mưa) dẫn đến phải tăng cường khai thác nước ngầm và tiếp tục gây sụt lún.

GS Võ Tòng Xuân - Trường ĐH Nam Cần Thơ, cho rằng ngoài tác động từ thủy điện Mê Kông của Trung Quốc và Lào, các dự án chuyển nước sang vùng đông bắc Thái Lan, ĐBSCL còn chịu sự tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

GS Võ Tòng Xuân cũng đề xuất, Vùng ven biển không cần ngọt hóa để trồng lúa nữa mà có thể phát triển ngành nuôi trồng thủy sản có lợi ích kinh tế gấp 4 - 5 lần trồng lúa. Vùng nước lợ (mặn ngọt theo mùa) có thể luân canh lúa - tôm. Còn lại vùng cặp biên giới với Campuchia, đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu ở các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang không khi nào bị mặn xâm nhập với diện tích khoảng 1,5 triệu héc ta có thể “gánh” được an ninh lương thực cho cả nước. Còn lại vùng giữa, có thể đào mương, lên líp để trồng rau màu và cây ăn trái. Kênh mương có thể dùng để tích nước trữ ngọt dùng vào mùa khô để chống hạn. Phân vùng sản xuất theo kiểu thuận thiên như vậy chúng ta sẽ giảm áp lực về nhu cầu nước ngọt.