Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội thông báo chấp thuận cho CTCP Tôn Đông Á được đưa 114.691.510 cổ phiếu lên giao dịch trên sàn Upcom với mã chứng khoán GDA.

Cổ phiếu GDA sẽ giao dịch phiên đầu tiên ngày 7/9/2023 với giá tham chiếu trong ngày giao dịch đầu tiên 30.000 đồng/cổ phiếu. Với mức định giá này, vốn hóa ngày chào sàn của Tôn Đông Á đạt 3.440 tỷ đồng.

Hiện tại trên sàn chứng khoán có vài chục cổ phiếu ngành thép. Tuy vậy với những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tôn lớn, dường như chỉe “điểm tên” 4 đại diện là tôn Hoa Sen (HSG), tôn Nam Kim (NKG) và thép Hòa Phát (HPG).

Nếu so giá chào sàn cổ phiếu GDA và 3 cổ phiếu ngành tôn thép còn lại, GDA có thể đang xấp xỉ giá HPG, cao hơn hẳn so với HSG và NKG.

Khánh Hòa: Đề xuất thành lập quận Cam Ranh và quận Cam Lâm

Theo giới thiệu trên Bản cáo bạch niêm yết, CTCP Tôn Đông Á tiền thân là Công ty TNHH Đông Á được thành lập ngày 5/11/1998, sau đó được đổi tên thành Công ty TNHH Tôn Đông Á vào tháng 6/2005, tới năm 2009, Công ty đã chuyển đổi từ công ty TNHH sang Công ty cổ phần.

Năm 2009, Nhà máy sản xuất tại Dĩ An, Bình Dương với tổng diện tích nhà xưởng hơn 35.000 m2 và có 2 dây chuyền mạ kẽm, trong đó một dây chuyền mạ màu được lắp đặt hoàn chỉnh và đưa vào sản xuất theo công nghệ Hàn Quốc. Ngoài ra, sau khi chuyển sang Công ty cổ phần, Công ty đầu tư xây dựng dây chuyền mạ màu thứ hai được nhập khẩu từ nhiều nước tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu… và chính thức sản xuất các sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng JIS F3312 của Nhật Bản.

Tới năm 2010, dây chuyền mạ kẽm/hợp kim nhôm kẽm công nghệ NOF chính thức đi vào hoạt động. Tôn Đông Á thâm nhập vào thị trường thép lá mạ với các sản phẩm tôn kẽm, tôn lạnh màu chất lượng cao phục vụ cho ngành xây dựng dân dụng và công nghiệp.

Thêm nữa, năm 2011, dây chuyền mạ màu thứ ba ra đời, nâng tổng công suất nhà máy tại Khu công nghiệp Sóng Thần 1 lên 150.000 tấn/năm; năm 2013, nhà máy sản xuất thép lá mạ thứ hai tại KCN Đồng An 2, TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương được khởi công xây dựng trên diện tích 125.800 m2 với tổng vốn đầu tư 160 triệu USD.

Năm 2017, Tôn Đông Á hoàn thiện giai đoạn 2 của nhà máy Thủ Dầu Một với công suất tăng thêm 600.000 tấn/năm với vốn đầu tư 90 triệu USD; năm 2018, tiếp tục nâng tổng suất của hai nhà máy lên 850.000 tấn/năm bao gồm 4 dây chuyền mạ kẽm/nhôm kẽm với công nghệ lò ủ NOF, 4 dây chuyền mạ màu, 1 dây chuyền tẩy rỉ, 2 dây chuyền cán nguội, 2 dây chuyền xả băng và 1 dây chuyền chia cuộn.

Và tới tháng 11/2020, Công ty khởi công dự án nhà máy sản xuất ống tại KCN Hoà Khánh – Đà Nẵng với tổng quy mô 20.000 m2, công suất 70.000 tấn/năm, tổng vốn đầu tư 150 tỷ đồng.

Theo dữ liệu thị phần tôn Việt Nam năm 2022, Công ty cổ phần Tôn Đông Á đang là doanh nghiệp đứng thứ 3 về năng lực sản xuất 800.000 tấn/năm. Tuy nhiên, nếu so sánh về sản lượng tiêu thụ thực tế, Công ty đang đứng thứ hai tại thị trường nội địa.

Về hoạt động tăng vốn, khi thành lập, Công ty có vốn điều lệ 120 tỷ đồng, đã trải qua 13 lần tăng vốn, đến nay vốn điều lệ là 1.146,92 tỷ đồng. Trong đó, Công ty có 4 cổ đông lớn bao gồm ông Nguyễn Thanh Trung, Chủ tịch HĐQT sở hữu 32,6% vốn điều lệ; bà Lê Thị Phương Loan, Thành viên HĐQT sở hữu 10,73% vốn điều lệ; Công ty TNHH Thương mại JFE Shoji Việt Nam sở hữu 7,44% vốn điều lệ; bà Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh, Thành viên HĐQT sở hữu 6,57% vốn điều lệ; còn lại 42,66% thuộc về nhóm cổ đông sở hữu dưới 5% vốn điều lệ.

6 tháng đầu năm 2023, Tôn Đông Á ghi nhận doanh thu thuần 8.726 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế đạt 210 tỷ đồng, thấp hơn 33% và 49% so với cùng kỳ năm ngoái; nhưng so với 6 tháng cuối năm 2022 tăng lần lượt là 2% và 130%.

Năm 2023, công ty đặt kế hoạch tổng doanh thu 17.000 tỷ đồng, bằng 78% so với cùng kỳ và lợi nhuận sau thuế dự kiến 200 tỷ đồng, tăng mạnh so với khoản lỗ 277 tỷ đồng trong năm 2022. Trong đó, tổng sản lượng dự kiến 760.000 tấn, tương đương 98,7% so với thực hiện trong năm 2022.

Tại thời điểm cuối tháng 6/2023, Tôn Đông Á có tổng tài sản 10.339 tỷ đồng, không có nhiều thay đổi so với đầu năm. Công ty có hơn 2.000 tỷ đồng tiền mặt và tiền gửi; gần 3.400 tỷ đồng hàng tồn kho. Nợ vay ở mức 5.318 tỷ đồng, chủ yếu là vay ngắn hạn tại các ngân hàng.