Theo Bộ Y tế, nếu mức sinh cứ giảm với tốc độ như hiện nay mà không có các giải pháp để giảm bớt thì đến năm 2025-2059, dân số Việt Nam sẽ tăng trưởng âm và giảm ngày càng nhanh. Làm thế nào để nâng cao mức sinh thay thế là các giải pháp được đưa ra bàn thảo tại hội thảo quốc tế tham vấn chính sách, giải pháp ngăn chặn xu hướng mức sinh thấp được Cục Dân số (Bộ Y tế) tổ chức ngày 28/8.

Theo ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số, cho biết thời gian qua, công tác dân số đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Việt Nam chính thức đạt mức sinh thay thế từ năm 2006 khi tổng tỉ suất sinh (TFR) là 2,09 con/phụ nữ và duy trì suốt thời gian qua.

Kết quả này góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu dân số theo hướng tích cực, Việt Nam bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 tạo cơ hội cho nền kinh tế bứt phá, phát triển nhanh. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt...

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức mới nảy sinh: Việc duy trì mức sinh thay thế vững chắc trên phạm vi toàn quốc chưa thực sự bền vững, mức sinh chênh lệch đáng kể giữa các vùng, đối tượng, xuất hiện xu hướng mức sinh thấp.

Mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm dưới mức sinh thay thế, tổng tỉ suất sinh năm 2023 là 1,96 con/phụ nữ, mức giảm thấp nhất từ trước tới nay và được dự báo sẽ tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo.

Xu hướng mức sinh thấp và xuống rất thấp tập trung ở một số đô thị, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Theo vùng kinh tế - xã hội, hiện có 02/6 vùng là Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp dưới mức sinh thay thế. Theo các tỉnh, thành phố, đã có tới 21/63 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp, chiếm khoảng 39,37% dân số cả nước; hầu hết là những tỉnh nằm ở vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam, đô thị hóa cao, tăng trưởng kinh tế nhanh.

Ông Dũng cho biết Bộ Y tế đang nghiên cứu các đề xuất các chính sách, giải pháp để bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia. Hội thảo là dịp cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định cũng như thực thi chính sách; tham khảo quan điểm và chính sách ứng phó với mức sinh thấp của các nước trên thế giới, từ đó đưa ra định hướng chung trong xây dựng chính sách nhằm duy trì mức sinh thay thế tại Việt Nam.

Trung bình người Việt hơn 27 tuổi mới kết hôn lần đầu

Báo cáo tại hội thảo, ông Phạm Vũ Hoàng, Phó Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế, cho biết 2/6 vùng kinh tế xã hội có mức sinh thấp dưới mức sinh thay thế là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó Đông Nam Bộ số con trung bình là 1,47 con.

Tuổi kết hôn trung bình lần đầu thay đổi theo hướng kết hôn muộn hơn. Tăng từ 24,1 tuổi (năm 1999) lên 25,2 tuổi (2019). Sau 4 năm, đến năm 2023 tuổi kết hôn lần đầu tiếp tục tăng thêm 2 tuổi và hiện là 27,2 tuổi. Với nam giới, tuổi kết hôn trung bình lần đầu là 29,3 và nữ giới là 25,1. Cùng đó, phụ nữ thành thị sinh muộn và sinh con ít hơn phụ nữ nông thôn.

Ông Hoàng chỉ ra, trình độ học vấn và hoàn cảnh kinh tế có liên quan đến mức sinh. Số liệu năm 2023 cho thấy trong đó người giàu nhất có mức sinh là 2 con, người nghèo nhất có mức sinh là 2,4 con, người có mức sống khá và trung bình sinh từ 2,03 đến 2,07 con.

Còn người có trình độ học vấn dưới tiểu học sinh tới 2,35 con thì người có trình độ trên PTTH chỉ đẻ 1,98 con.

"Có thể thấy, mức sinh ngày càng giảm là do đô thị hóa, kinh tế phát triển, áp lực tìm kiếm việc làm, nhà ở, chi phí sinh hoạt, chi phí nuôi dạy và chăm sóc con. Bên cạnh đó, hạ tầng cơ sở có nhiều bất cập như thiếu trường học, học phí cao không động viên mọi người sinh con. Bên cạnh đó, học vấn điều kiện sống ngày càng được cải thiện khiến nhiều người có tâm lý muốn hưởng thụ, dành thời gian, tiền bạc cho các thú vui cá nhân mà không muốn sinh con"- ông Hoàng phân tích.

Theo GS.TS Nguyễn Thiện Nhân, đại biểu Quốc hội khoá XV, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ cảnh báo, nếu Việt Nam không có đột phá chính sách kinh tế - xã hội và chính sách dân số thì mức sinh của Việt Nam tiếp tục giảm sâu, đi theo con đường của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản hiện nay. GS Nguyễn Thiện Nhân nhận định, đa số thanh niên hiện nay vẫn mong muốn kết hôn khi trưởng thành và muốn có 2 con. Nếu có chính sách phát triển bền vững, tạo điều kiện cho thanh niên lập gia đình, sinh con, nuôi con thuận lợi thì sau 20-30 năm nữa các thế hệ tiếp theo sẽ duy trì như vậy. Muốn đạt được dân số phát triển bền vững, mỗi gia đình sinh được 2 con thì thu nhập của một gia đình 2 người đi làm phải nuôi được đàng hoàng 4 người (2 người lớn, 2 trẻ em). Cần chuyển từ quy định lương tối thiểu sang quy định lương đủ sống tối thiểu cho gia đình 4 người. Thời gian làm việc của người lao động phải đủ ngắn (8h lao động/ngày, 40h/tuần) để họ có thời gian tìm bạn đời, chăm sóc con cái, gia đình và sở thích riêng.

Còn theo GS.TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và Các vấn đề xã hội, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, vì sao các cặp vợ chồng trẻ ở các đô thị lớn ngại sinh con. Đó là giá nhà đắt, học hành đắt, chi phí nuôi con lớn và rất lớn. Nhiều người thu nhập thấp, công nhân ở khu công nghiệp, tiền lương chỉ đủ thuê trọ và sinh hoạt tối thiểu; nhiều cặp vợ chồng trẻ không có tiền mua nhà… nên họ ngại sinh con. Để “kích” sinh, theo GS Cử, các tỉnh, thành có mức sinh thấp cần ra soát, bãi bỏ các chính sách khuyến khích sinh ít con mà cần khuyến khích sinh đủ 2 con. Xây dựng chính sách linh hoạt với các bà mẹ trẻ mang thai như họ được nghỉ dài hơn; chế độ làm việc linh hoạt khi có con nhỏ như có quyền được nghỉ nguyên lương khi “con ốm mẹ nghỉ”. Nhà nước có thể hỗ trợ về mặt tài chính cho phụ nữ sau sinh tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế; hỗ trợ về mặt kỹ thuật và tài chính cho chữa vô sinh đang cần thiết ở nước ta hiện nay.

Tại báo cáo đánh giá tác động dự án Luật Dân số được lấy ý kiến mới đây, Bộ Y tế đề xuất các cặp vợ chồng, cá nhân có quyền quyết định tự nguyện, bình đẳng và có trách nhiệm trong việc sinh con, thời gian sinh con, số con. Còn theo ông Phạm Vũ Hoàng, giải pháp cần điều chỉnh, hoàn thiện trong thời gian tới là cần bãi bỏ chính sách khuyến khích sinh ít con; từng bước ban hành, thực hiện các chính sách sinh đủ 2 con; thí điểm mở rộng thực hiện chính sách hỗ trợ cặp vợ chồng sinh con, nuôi dạy con; đồng thời có chính sách không khuyến khích kết hôn muộn, sinh con muộn và sinh con ít.