Về ba tác giả đoạt giải Nobel kinh tế 2022, ông Ben Bernanke là cựu Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) giai đoạn 2006-2014, hiện làm việc cho Viện Brookings (Mỹ). Còn ông Douglas Diamond và Philip Dybvig lần lượt giảng dạy tại Đại học Chicago và Đại học Washington (Mỹ). Ông Douglas W. Diamond hiện là Giáo sư chuyên ngành tài chính của Đại học Chicago. Còn ông Philip H. Dybvig tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Yale vào năm 1979 và hiện là Giáo sư chuyên ngành Ngân hàng và Tài chính thuộc Đại học Washington ở St. Louis (Mỹ).

Giải mã công trình nghiên cứu về ngân hàng và khủng hoảng tài chính chiến thắng Giải Nobel Kinh tế 2022
Chân dung các nhà kinh tế học đạt giải Nobel kinh tế 2022. Ảnh: Nobelprize.org

Theo TTXVN, ba nhà nghiên cứu đoạt giải Nobel kinh tế năm nay đặt nền tảng cho nghiên cứu này từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước. Các phân tích của họ có tầm quan trọng thực tế to lớn trong việc điều tiết thị trường tài chính và đối phó với các cuộc khủng hoảng tài chính.

Họ làm rõ nguyên nhân tại sao các ngân hàng sụp đổ làm trầm trọng thêm các cuộc khủng hoảng tài chính, và việc bảo đảm các ngân hàng không bị phá sản lại có ý nghĩa sống còn, đồng thời làm thế nào để giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng.

Công trình nghiên cứu của 3 chuyên gia kinh tế hàng đầu này giúp nâng cao nhận thức về vai trò của các ngân hàng trong nền kinh tế, đặc biệt là trong các cuộc khủng hoảng tài chính.

Cụ thể để nền kinh tế vận hành, các khoản tiết kiệm phải được chuyển sang đầu tư. Tuy nhiên, có một mâu thuẫn ở đây là những người tiết kiệm muốn huy động tiền ngay trong trường hợp cần chi tiêu cấp bách, trong khi các doanh nghiệp và chủ bất động sản cần được bảo đảm họ sẽ không bị buộc phải trả nợ trước hạn.

Hai ông Diamond và Dybvig chỉ ra cách các ngân hàng đưa ra giải pháp tối ưu cho vấn đề này.

Bằng cách đóng vai trò trung gian nhận tiền gửi của nhiều người tiết kiệm, các ngân hàng có thể cho phép người gửi tiền tiếp cận tiền của họ khi họ muốn, đồng thời cung cấp các khoản vay dài hạn cho người đi vay.

Một chức năng xã hội quan trọng khác của các ngân hàng là đánh giá mức độ tín nhiệm của người đi vay và bảo đảm rằng các khoản vay được sử dụng cho các khoản đầu tư sinh lời.

Sự kết hợp của 2 hoạt động này khiến hoạt động của các ngân hàng dễ bị ảnh hưởng bởi những tin đồn thất thiệt. Nếu một số lượng lớn người gửi tiết kiệm cùng lúc đến ngân hàng để rút tiền khi có tin đồn, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh khoản và sụp đổ.

Tuy nhiên, những nguy cơ này có thể được ngăn chặn với việc chính phủ cung cấp bảo hiểm tiền gửi và hoạt động như một thể chế cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng.

Trong khi đó, ông Ben Bernanke đã phân tích về cuộc Đại suy thoái thập niên 30 của thế kỷ trước, được đánh giá là cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại.

Hoạt động của các ngân hàng là yếu tố quyết định khiến cuộc khủng hoảng trở nên sâu sắc và kéo dài. Khi các ngân hàng sụp đổ, các thông tin có giá trị về người đi vay bị mất và không thể nhanh chóng phục hồi. Do đó, khả năng của xã hội để chuyển tiền tiết kiệm thành những khoản đầu tư hiệu quả bị giảm sút nghiêm trọng.

Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đánh giá 3 nhà khoa học này đã “nâng cao đáng kể hiểu biết của chúng ta về vai trò của các ngân hàng trong nền kinh tế, đặc biệt là trong khủng hoảng tài chính, cũng như tăng nhận thức về cách điều tiết các thị trường tài chính”.

Thông cáo của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển công bố trên trang web Nobelprize.org viết: "Cuộc Đại suy thoái trong những năm 1930 từng khiến nền kinh tế thế giới tê liệt trong nhiều năm và gây ra những hậu quả xã hội to lớn. Tuy nhiên, chúng tôi đã có thể đề ra cách thức kiềm chế các cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo nhờ vào nghiên cứu của những người đạt giải năm nay. Điểm quan trọng được ghi trong nghiên cứu của họ là ‘vì sao việc tránh để ngân hàng sụp đổ lại quan trọng'".

Giải Nobel Kinh tế có tên gọi đầy đủ là Giải thưởng của ngân hàng Sveriges Riksbank dành cho Khoa học kinh tế. Đáng nói, Giải Nobel Kinh tế vốn không nằm trong hệ thống 5 giải Nobel được lập theo di nguyện của nhà khoa học người Thụy Điển này vào năm 1895 mà đây là giải thưởng do Ngân hàng Trung ương Thụy Điển sáng lập và tài trợ bắt đầu từ năm 1968 để kỷ niệm 300 năm thành lập ngân hàng này và cũng để tưởng nhớ Alfred Nobel.

Quy trình đề cử, chọn lọc và trao giải Nobel Kinh tế vẫn tương tự các lĩnh vực khác. Nhà khoa học giành Nobel Kinh tế năm nay sẽ được trao 10 triệu kronor Thụy Điển (khoảng 900.000 USD).

Giải Nobel Kinh tế đã được trao 53 lần cho 92 cá nhân kể từ năm 1969 tới năm 2022. Người trẻ tuổi nhất từng đoạt giải thưởng danh giá này là nhà kinh tế học Esther Duflo (khi đó 46 tuổi), trong khi người cao tuổi nhất từng được vinh danh là giáo sư Leonid Hurwicz (ở tuổi 90). Đến nay, mới có hai phụ nữ giành được giải thưởng này.

Nobel Kinh tế là giải thưởng cuối cùng được trao trong mỗi mùa Nobel hằng năm, sau những giải Y học, Vật lý, Hóa học, Văn học và Hòa bình. Nobel Kinh tế không thuộc cơ cấu giải thưởng ban đầu trong di chúc của nhà khoa học Thụy Điển Alfred Nobel.

Sau đây là Danh sách các tác giả đạt giải Nobel Kinh tế các năm 2011 - 2021

Năm

Người đoạt giải

Công trình

Quốc gia

2021

David Card, Joshua Angrist và Guido Imbens

Kinh tế lao động và phương pháp luận trong quan hệ nhân quả

Canada, Mỹ và Hà Lan

2020

Paul R.Milgrom và Robert B.Wilson

Thuyết đấu giá

Mỹ

2019

Abhijit Banerjee, Esther Duflo và Michael Kremer

Cách tiếp cận thực nghiệm trong việc giảm nghèo toàn cầu

Mỹ và Pháp

2018

William Nordhaus

Paul Romer

Kinh tế học khí hậu

Thuyết tăng trưởng nội sinh

Mỹ

2017

Richard H.Thaler

Kinh tế học hành vi

Mỹ

2016

Oliver Hart và Bengt Holmström

Lý thuyết hợp đồng

Mỹ và Phần Lan

2015

Angus Deaton

Mối quan hệ giữa tiêu dùng, nghèo đói và phúc lợi

Mỹ

2014

Jean Tirole

Cách thức quản lý các tập đoàn, công ty lớn trên thị trường.

Pháp

2013

Eugene F. Fama, Lars Peter Hansen, Robert J. Shiller

Phân tích giá tài sản

Mỹ

2012

Alvivin E.Roth và Lloyd S.Shapley

Lý thuyết phân phối ổn định và thực tiễn về tạo lập thị trường

Mỹ

2011

Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims

Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của chúng lên nền kinh tế

Mỹ