Sốt mò là gì? Sốt mò nguy hiểm đến đâu?
Sốt mò là gì?

Sốt mò là gì?

Sốt mò hay còn gọi là sốt bờ bụi, đó là một bệnh nhiễm trùng cấp tính do Rickettsia tsutsugamushi gây nên. Bệnh có đặc điểm lâm sàng là sốt kéo dài 2 – 3 tuần, kèm theo có vết loét trên da do côn trùng đốt, phát ban dạng sẩn và viêm hạch.

Bệnh sốt mò tiến triển từ nhẹ đến nặng và có thể gây ra các biến chứng: viêm phổi, viêm não màng não, viêm cơ tim… hoặc suy đa phủ tạng dẫn đến tử vong nếu không phát hiện và điều trị kịp thời.

Bệnh sốt mò thường gặp ở các nước châu Á nhiệt đới, nhất là những khu rừng núi có cây cối rậm rạp, đất mùn ẩm ướt, ở các hang hốc trong núi đá hay dọc hai bên bờ sông suối, bờ biển. Đó là những nơi có khí hậu nóng ẩm, thích hợp cho con mò phát triển đồng thời có nhiều con vật mang mầm bệnh như các loài gặm nhấm sinh sống.

Thời gian xuất hiện bệnh là khoảng từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm.

Tại Việt Nam, vào năm 1965 một vụ dịch Sốt mò lớn bùng phát ở Sơn La do dân vào hang trú bom, bùng phát hàng trăm bệnh nhân. Năm 1969, bộ đội đóng quân ở Hà Tuyên phát hiện 175 bệnh nhân với 2 ca tử vong.

Như vậy những người hay vào rừng lấy gỗ, làm rẫy, khai hoang, săn bắn, các đơn vị bộ đội đi hành quân, những người khách tham quan du lịch hoặc người dân sống ở nơi ẩm thấp bị mò, thậm chí là ấu trùng của con mò qua vật chủ trung gian là các loài gặm nhấm, đặc biệt là chuột đốt và nhiễm vi khuẩn.

Bệnh sốt mò gặp chủ yếu ở vùng nông thôn rừng núi (80,5%), hiếm ở thành thị.ở vùng ôn đới và nhiệt đới bệnh phát triển về mùa hè và những tháng mưa có độ ẩm cao là thời gian chỉ số mò cao.

Triệu chứng của sốt mò ra sao?

Người bệnh sốt mò thường có các triệu chứng: sốt cao liên tục và kéo dài, đau đầu nhiều, da xung huyết, xung huyết kết mạc mắt, có thể có vết loét và có viêm hạch.

Vết loét điển hình của sốt mò thường có hình bầu dục, kích thước từ: 0,5 – 2 cm, có vẩy đen hoặc đã bong vẩy tạo thành vết loét có gờ, không tiết dịch. Vết loét thường không đau, không ngứa và khu trú ở những vùng da mềm như: cổ, nách, ngực, bụng, bẹn… nên người bệnh cũng không biết đến.

Sốt cao trong tuần thứ nhất, thường từ 40 đến 40,5°C. Đau đầu thường dữ dội và phổ biến, cũng như biểu hiện viêm kết mạc. Phát ban dạng dát trên thân mình vào ngày sốt thứ 5 đến ngày sốt thứ 8, thường lan rộng ra cánh tay và chân. Nó có thể biến mất nhanh chóng hoặc trở nên đa sắc và đậm màu hơn. Ho có thể xuất hiện trong tuần đầu tiên của cơn sốt, và viêm phổi phát triển trong tuần thứ 2.

Trong trường hợp nặng, nhịp tim tăng lên; huyết áp giảm; mê sảng, choáng váng, và co giật tăng lên. Lách to và viêm cơ tim có thể xuất hiện và thường gặp hơn những bệnh rickettsial khác. Ở những bệnh nhân không được điều trị, sốt cao có thể tồn tại từ 2 đến hơn 2 tuần, sau đó giảm dần trong vài ngày. Khi được điều trị, nhiệt độ giảm dần trong 36 giờ. Phục hồi nhanh chóng và không nguy hiểm.

Các biểu hiện của sốt mò là tương tự như sốt phát ban Rocky Mountain và sốt phát ban dịch tễ. Tuy nhiên, sốt mò xảy ra ở các khu vực địa lý khác nhau (khu vực Châu Á - Thái Bình Dương giáp với Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ và miền bắc Australia), và thường xuyên phát sinh bệnh sốt phát ban với bệnh hạch vệ tinh.

Sốt mò là gì? Sốt mò nguy hiểm đến đâu?
Sốt mò nguy hiểm đến đâu?

Sốt mò nguy hiểm đến đâu?

Bệnh sốt mò vẫn còn hay gặp ở nước ta tuy nhiên do không để ý đến yếu tố dịch tễ, không tìm và quan sát được vết loét nên chẩn đoán dễ bỏ sót và không điều trị kịp thời, có thể dẫn đến các biến chứng nặng như là viêm phổi, viêm não màng não, viêm cơ tim, suy đa tạng, dẫn đến tử vong..

Tại Viện Lâm sàng các bệnh truyền nhiễm Bệnh viện 108 đã ghi nhận những ca bệnh đến với các biến chứng nặng của sốt mò như suy hô hấp, viêm não, có trường hợp tử vong do suy đa tạng không hồi phục.

Điều đó thực sự đáng tiếc vì nếu phát hiện kịp thời, điều trị thực sự đơn giản và hiệu quả. Kháng sinh thường dùng là Doxycycline và Chloramphenicol.

Điều trị ban đầu của sốt mò là doxycycline 200 mg uống một liều sau đó duy trì là 100 mg hai lần/ngày ở người lớn. Dừng khi bệnh nhân cải thiện, hết sốt 48 giờ và đã được điều trị ít nhất 7 ngày.

Mặc dù một số tetracycline có thể gây ố răng ở trẻ em < 8 tuổi, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) khuyên rằng nên dùng một đợt doxycycline 2,2 mg/kg uống hoặc tĩnh mạch hai lần/ngày sẽ đảm bảo, dùng trong 5 lần ngày đối với bệnh nhẹ và trong 10 ngày đối với trẻ có nguy cơ cao. Nghiên cứu chỉ ra rằng các liệu trình ngắn hạn của doxycycline (5 đến 10 ngày, như được sử dụng cho bệnh còi xương) có thể được sử dụng cho trẻ em mà không gây ố răng hoặc làm suy yếu men răng. Phụ nữ mang thai có thể được dùng trimethoprim/sulfamethoxazole, 160 mg/800 mg hai lần/ngày trong suốt thai kỳ, nhưng không quá 32 tuần tuổi thai.

Đối với phụ nữ có thai và bệnh nhân bị dị ứng doxycycline nặng, azithromycin (500 mg vào ngày đầu tiên, sau đó là 250 mg mỗi ngày trong 2 đến 4 ngày nữa hoặc 1 g ban đầu, sau đó là 500 mg một lần mỗi ngày trong 2 ngày) đã được chứng minh là thay thế an toàn và hiệu quả cho doxycycline.

Chloramphenicol 500 mg uống hoặc tĩnh mạch 4 lần một ngày trong 7 ngày là một phương pháp điều trị thay thế. Chloramphenicol dạng uống không có sẵn ở Mỹ, và việc sử dụng nó có thể gây ra tác dụng phụ về huyết học, đòi hỏi phải theo dõi các chỉ số máu.

Phòng bệnh sốt mò như thế nào?

Tích cực phát quang khu vực xung quanh nhà ở, dọn dẹp sạch cỏ dại, cây cối um tùm cũng như diệt chuột, các loại gặm nhấm. Khơi thông cống rãnh, định kỳ phun thuốc diệt côn trùng 6tháng/lần. Không nằm hoặc phơi quần áo ở những nơi ẩm ướt để ránh ấu trùng mò bám vào.

Khi vào rừng tham quan hay làm việc chú ý tránh nghỉ ngơi dưới cây cỏ rậm rạp, nhiều cỏ dại, đất mùn. Không nằm dưới đất mà nằm trên võng cao. Nên mặc quần áo kín đáo, đi giầy cao cổ. Dùng thuốc xua đuổi côn trùng bôi vào vùng da trống. Đi về nên thay đồ ngay và tắm rửa sạch sẽ, không nên mặc đi lại nhiều lần.

Quan trọng là nếu bạn đi về từ các vùng dịch tễ và xuất hiện sốt cao, đau đầu, cần đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị kịp thời, tránh để lại các hậu quả đáng tiếc.